Việt Nam là một đất nước có nền tôn giáo đa dạng, luôn phát triển và hướng con người đến những giá trị tốt đẹp. Tôn giáo mang đến cho con người ta niềm tin vững chãi để có thể vượt qua những chông gai trong tâm. Và phật giáo là một trong số những tôn giáo đã tồn tại từ lâu và còn phát triển đến ngày nay.
Trong lịch sử Việt Nam đã có nhiều vị sư tu hành từ lâu và được tôn xưng là cao tăng. Những vị cao tăng, vị sư đã đóng góp ít nhiều cho đất nước, một số vị còn ‘Cởi áo cà sa, khoác chiến bào’ tham gia vào cuộc chiến chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước.
Vậy những vị cao tăng nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam là ai? Xin mời Quý vị và các bạn cùng nhau tìm hiểu trong bài viết này nhé:
1. Thiền sư Vạn Hạnh
Thiền sư Vạn Hạnh sinh khoảng năm 937 và mất khoảng 1018, là một Thiền sư nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong những Tăng sĩ làm cố vấn cho vua Lê Đại Hành, đồng thời là người thầy của Lý Công Uẩn, đã hướng dẫn cho vị này lên ngôi thay đổi triều đại và lập ra triều Lý.
Từ khi còn nhỏ, khác với những đứa trẻ khác, Sư thông minh và tinh thông Tam học, nghiên cứu Bách luận, xem thường công danh phú quý.
Trong ‘Đại Việt Sử Ký Toàn Thư’ (Bản Việt dịch in năm 2011 tại Hà Nội – Nhà xuất bản Thời Đại) đã 3 lần nhắc đến vị Sư này.
Lần đầu vào năm 977, khi Lý Công Uẩn được 3 tuổi, được mẹ bế đến nhà Sư Lý Khánh Vân và được nhận làm con nuôi, đến chùa Lục Tổ học. Sư Vạn Hạnh lần đầu trông thấy đã khen là khác thường về sau có thể làm vua giỏi. Nguyên văn: “Đứa bé này (tức Lý Công Uẩn) không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ.” Về sau, đúng theo lời ‘tiên đoán’ của Sư Vạn Hạnh, khi lớn lên Lý Công Uẩn làm quan nhà Lê và thăng đến chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ.
Lần thứ hai, trước khi vua Ngọa Triều Lê Long Đĩnh băng hà vào năm 1009, Sư Vạn Hạnh đã khuyên Lý Công Uẩn nên lập chí thay ngôi nhà Lê vì lòng dân đều oán ghét sự tàn ác của Long Đĩnh và theo lời sấm vĩ đang loan truyền trong dân gian thì họ Lý sẽ thay họ Lê. Cụ thể là: “Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng Thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang nắm binh giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải Thân vệ thì còn ai đương nỗi nữa. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết, để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là cái may nghìn năm có một” Cho đến khi Ngọa Triều Lê Long Đĩnh mất, Lý Công Uẩn ứng mệnh trời, thuận lòng người tự lập làm vua, cho đóng đô ở thành Thăng Long, mở ra chương mới cho lịch sử Việt Nam, mở đầu Nhà Lý kéo dài 216 năm (từ năm 1009 đến năm 1225).
Lần thứ ba là khi Sư Vạn Hạnh qua đời (Sư không bệnh mà mất nên người đời nói là hóa thân), có lời bàn của Sử thần Ngô Sĩ Liên :”Sư Vạn Hạnh mới trông thấy Lý Thái Tổ, biết là người khác thường, đến khi thấy sét đánh thành vết chữ thì đoán biết thời thế thay đổi, như thế là có tri thức vượt người thường vậy.”
Thiền sư Vạn Hạnh còn có tài tiên tri, tiên đoán trước sự việc. Những lời tiên tri và sấm truyền của sư Vạn Hạnh được lưu truyền hầu hết trong sách Thiền Uyển tập anh và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Tiêu biểu là trường hợp nhà sư thoát chết nhờ tài tiên tri. Cụ thể, Theo sách Thiền Uyển tập anh, thời bấy giờ có người tên Đỗ Ngân muốn ám hại thiền sư; việc chưa xảy ra thì thiền sư đã biết trước, gửi cho Đỗ Ngân bài thơ:
“Cây đất sinh nhau bạc với vàng,
Cớ sao thù địch mãi cưu mang.
Bấy giờ năm miệng hồn thu dứt,
Thật đến về sau chẳng hận lòng.”
Sau đó, Đỗ Ngân bèn từ bỏ dã tâm.
Ngày vua Lý Thái Tổ lên ngôi, thiền sư Vạn Hạnh lúc đó đang ở trong chùa Lục Tổ nhưng đã biết trước, ngài bèn nói với người bác và chú của Thái Tổ rằng: “Thiên tử đã băng, Lý thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số ngàn. Trong trưa này, Thân vệ ắt được lên ngôi”. Bác và chú vua Thái Tổ thấy lo bèn sai người đi dò tin tức, mới thấy lời thiền sư nói đúng.
Ca ngợi tài năng và công đức của sư Vạn Hạnh, vua Lý Nhân Tông đã viết bài kệ “Truy tán Vạn Hạnh Thiền Sư” rằng:
Vạn Hạnh dung tam tế
Chân phù cổ sấm thi
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ.
Có nghĩa là:
Vạn Hạnh thông ba cõi
Thật hợp lời sấm xưa
Quê hương tên Cổ Pháp
Chống gậy trấn kinh vua.
(Theo bản dịch nghĩa của Nguyễn Đức Vân và Đào Phương Bình)
2. Thiền sư Khuông Việt
Khuông Việt là vị thiền sư được phong Tăng thống đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Trên 30 năm đại sư Khuông Việt đã phục vụ trong các chính quyền của Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành và đã thể hiện được tài năng nhiều mặt của mình. Không chỉ trong lĩnh vực sinh hoạt Phật giáo mà cả trong lĩnh vực chính trị và ngoại giao.
Thiền sư Khuông Việt (có tên khác là Ngô Chân Lưu) sinh năm 933, mất năm 1011, là người hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc (nay là huyện Sóc Sơn), Hà Nội. Dựa theo phả hệ họ Ngô, Thiền sư có tên húy là Ngô Xương Tỷ, là anh trai của Thái tử – Sứ quân Ngô Xương Xý, con của Ngô Xương Ngập (Thiên Sách Vương), cháu đích tôn của Ngô Quyền ( Tiền Ngô Vương) – vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử.
Ngô Xương Tỷ ra đời dưới thời của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ (cha vợ của Ngô Quyền). Đến khi Dương Đình Nghệ qua đời do bị thế lực họ Kiều ám sát vào năm 937, Kiều Công Tiễn tự xưng là Tiết độ sứ và lên nắm quyền nhưng vấp phải luồng sóng phản đối mạnh mẽ của các hào trưởng địa phương và nội bộ chia rẽ.
Năm 938, Ngô Quyền xử tử Kiều Công Tiễn. Ông đem quân đánh quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng thành công với trận cắm cọc trên sông nổi tiếng lịch sử. Mở ra thời kỳ mới cho lịch sử nước nhà sau 1000 năm đô hộ Bắc thuộc, lập nên nhà Ngô.
Trước khi Ngô Quyền qua đời vào năm 944, ông đã giao con trưởng của mình là Ngô Xương Ngập (cha của Ngô Xương Tỷ) cho em vợ – Dương Tam Kha. Lợi dụng Ngô Xương Ngập còn nhỏ, chưa đủ sức để quản triều đình, Dương Tam Kha ra sức chiếm ngôi, khiến cho Ngô Xương Ngập phải bỏ chạy vào nhà một hào trưởng. Trong thời gian bỏ trốn, Ngô Xương Ngập đã đổi tên cho Ngô Xương Tỷ thành Ngô Chân Lưu và gửi ông vào nơi cửa Phật để thoát họa.
Ngô Chân Lưu cùng bạn đến chùa Khai Quốc (bây giờ là chùa Trấn Quốc) để theo học Thiền sư Vân Phong và Thọ giới Cụ túc. Được một thời gian, ông đi du ngoạn khắp nơi và khi đến núi Vệ Linh, ông thấy ở đây thanh bình, tĩnh lặng thích hợp với việc tu hành nên đã lập am để ở. Đến khi ông 40 tuổi, tiếng thơm Thiền sư Ngô Chân Lưu vang xa đến tận triều đình. Năm 969, vua Đinh Tiên Hoàng cho mời ông đến gặp và nói chuyện, phong cho Thiền sư chức Tăng thống. Ông trở thành vị thiền sư giữ chức Tăng thống đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Tên Khuông Việt của ông được vua Đinh Tiên Hoàng đặt cho.
Sau biến cố năm 979, triều đình có sự thay đổi. Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi vua lãnh đạo nhân dân chống lại cuộc xâm lược của nhà Tống. Thiền sư Khuông Việt vẫn được trọng dụng ở chức Tăng thống.
Vào năm 987, Vua Lê Đại Hành đã giao phó cho thiền sư Pháp Thuận và thiền sư Khuông Việt cùng đứng ra đón tiếp đại diện từ nhà Tống qua. Pháp Thuận đã đón Lý Giác từ chùa Sông Sách, nay thuộc tỉnh Hải Dương, để đưa về kinh ấp Hoa Lư. Đến Hoa Lư, Khuông Việt đã đứng ra tiếp.
Trong dịp này, nhà sư Khuông Việt đã viết ra bài “Vương Lang Quy’ nổi tiếng đến ngày nay. Đây là một tác phẩm văn học đầu tiên hiện còn của lịch sử ngoại giao Việt Nam, nếu không kể đến các văn thư ngoại giao với Trung Quốc. Đồng thời, nó cũng là bài Nguyễn Lang Quy không những xưa nhất của văn học Việt Nam, mà còn của văn học thế giới…
Đến cuối triều Lê, do tuổi già sức yếu nên ông xin từ quan mở trường ở chùa Thanh Tước núi Du Hý của quận Thường Lạc, các đệ tử đến học rất đông. Thiền sư Khuông Việt ngồi kiết già mà qua đời vào năm 1011, thọ 78 tuổi.
Ông đã sống một cuộc đời đạt đến đỉnh cao danh vọng: là Tăng thống đầu tiên trong lịch sử, được vua hết lòng tin tưởng, giao trọng trách cho, cống hiến hết mình cho lịch sử Việt Nam.
Những câu chuyện về thiền sư Khuông Việt còn được ghi chép qua việc dạy học trò.
Một hôm, đệ tử nhập thất là Đa Bảo hỏi: “Thế nào là chung thủy của sự học đạo”. Sư đáp: “Thủy chung không vật, diệu hư không. Hiểu được chân hư, thể tự đồng”.
Vào ngày 15 tháng 2 năm Thuận Thiên thứ 2 (tức 22 tháng 3 năm 1011), khi sắp cáo tịch, nhà sư dạy Đa Bảo kệ rằng:
Mộc trung nguyên hữu hoả
Hữu hoả, hoả hoàn sinh
Nhược vị mộc vô hoả
Toản toại hà do manh.
Trong cây vốn có lửa
Có lửa, lửa mới bừng
Nếu bảo cây không lửa
Cọ xát do đâu bùng.
3. Thiền sư Pháp Thuận
Thiền sư Pháp Thuận sinh năm 915, mất năm 990. Theo Thiền uyển tập anh, không rõ tên thật của Thiền sư, chỉ biết ông họ Đỗ. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã nghe theo âm thanh của Phật pháp đi xuất gia, theo thầy là Thiền sư Phù Trì. Sư học rộng, biết nhiều, giỏi về nghệ thuật phù sấm.
Thiền sư Pháp Thuận đã giúp vua Lê Đại Hành đưa ra những sách lược, kế hoạch khi vua mới dựng nghiệp. Về sau thì giúp vua về việc chính trị. Đến khi mọi việc thành công thì ông từ chối vinh hoa bổng lộc để sống một đời thanh tịnh.
Thiền sư được vua Lê Đại Hành rất kính trọng, không gọi tên mà gọi ông là Đỗ Pháp sư, giao phó việc văn thư cho ông. Theo Đại Việt sử ký toàn thư nhận định: ‘Trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước thanh bình.’
Ông cùng Thiền sư Khuông Việt là cố vấn triều đình, được giao trọng trách đón tiếp sứ thần Lý Giác của nhà Tống khiến sứ thần phải kính phục. Đại việt sử ký toàn thư chép: Năm Đinh hợi (987), nhà Tống lại sai Lý Giác sang. Khi Giác đến chùa Sách Giang, vua sai pháp sư tên là Thuận giả làm người coi sông ra đón. Giác rất thích nói chuyện văn thơ. Lúc ấy nhân có hai con ngỗng lội trên mặt nước, Giác vui ngâm rằng:
Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nha.
(Ngỗng ngỗng hai con ngỗng,
Ngửa mặt nhìn chân trời).
Lý Giác là người được vua Tống phong là Quốc tử giám bác sĩ, rất giỏi về thơ văn. Nhìn qua hai câu thơ tưởng chừng như tả ngỗng ấy là lời dọa nạt của sứ giả phương Bắc. Hắn mượn ý hai câu đầu bài Vịnh Nga do Lạc Tân Vương làm từ ba thế kỷ trước để ám chỉ vua tôi nhà Tiền Lê như bầy ngỗng đang hướng đến mặt trời (ý nói vua Tống vì vua Tống tự xem mình là thiên tử – con của trời).
Thế nhưng không ngờ người đàn ông đang chèo thuyền chở hắn tưởng chừng như tầm thường đó cũng là người tinh thông văn học nên đã đáp trả lại rằng:
Bạch mao phô lục thủy,
Hồng trạo bãi thanh ba.
(Nước lục phô lông trắng,
Chèo hồng sóng xanh bơi).
Thiền sư cũng tiện mượn luôn 2 câu sau của bài Vịnh Nga đáp trả Lý Giác. Cho hắn biết rằng người nước tôi tuy nhìn bề ngoài có thể nhẹ nhưng đừng quên có mái chèo phía dưới để đập đầu sóng xanh, và ai cũng có thể hiểu được thâm ý của hắn. Đập tan sự ngạo mạn của Lý Giác.
Khi được nhà vua hỏi về vấn đề làm sao cho vận mệnh nước nhà được dài lâu thì Thiền sư đáp:
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư đạo các
Xứ xứ tức đao binh.
Dịch nghĩa:
Vận nước như dây mây leo quấn quýt,
Ở cõi trời Nam [mở ra] cảnh thái bình.
Vô vi ở nơi cung điện,
[Thì] khắp mọi nơi đều tắt hết đao binh
Nghĩa là phải giữ vận nước như dây mây quấn, một dây tuy dẻo dai nhưng dễ đứt nếu biết cách bẻ, vì thế phải quấn nhiều dây lại thành bó để khó có sức mạnh nào bẻ gãy được. Người lãnh đạo đất nước là nhà vua phải giữ được tâm tịnh, không nên kiêu ngạo vì sẽ dễ dẫn đến cảnh đao binh.
Một số tác phẩm mà Sư để lại cho đời gồm có: Bồ – tát Hiệu Sám Hối Văn, Thơ tiếp Lý Giác, Một bài Kệ, Quốc Tộ.
4. Phật Hoàng Trần Nhân Tông

Phật hoàng Trần Nhân Tông, còn được biết đến là vua Trần Nhân Tông (1258 – 1308), niên hiệu là Thiệu Bảo. Trong khoảng thời gian Ngài trị vì ngôi vua đã cho thi hành nhiều chính sách khoan hòa, thân dân, lấy đức để dẫn dắt nước nhà đi lên. Ngài chăm lo cho cuộc sống nhân dân hết mực, xây dựng một đất nước hòa bình, thịnh trị. Trần Nhân Tông hai lần dẫn dắt quân dân Đại Việt đánh đuổi giặc Mông – Nguyên thành công vào năm 1285 và 1288. Ngài cảm hứng hai câu thơ để cổ vũ quân và dân ta:
‘Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu’
Dịch nghĩa là:
Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông muôn thuở vững âu vàng’
Sau khi thành công trong việc lãnh đạo nhân dân đánh đuổi giặc ngoại xâm, Ngài đưa ra nhiều chính sách củng cố triều đình (chính sách hòa giải với các quần thần, chính sách vừa mềm dẻo vừa cứng rắn với các nước khác), củng cố tinh thần đại đoàn kết dân tộc, phát triển đất nước vững mạnh, trường tồn.
Năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, còn mình thì làm Thái Thượng Hoàng. Năm 1294, Thái Thượng Hoàng đích thân đem quân đi chinh phạt Ai Lao giữ yên bờ cõi. Sau khi hoàn thành, Ngài xuất gia và lên núi Yên Tử.
Ngài cho dựng chùa, giảng dạy Phật pháp, độ Tăng, thu hút rất nhiều Phật tử. Ngài cho thống nhất ba dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi, Vô Ngôn Thông, và Thảo Đường thành lập lên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử với tư tưởng nhập thế “Cư trần lạc Đạo”, “Hòa quang đồng trần” là dòng thiền mang bản sắc riêng của Đại Việt.
Về sau, Ngài thường xuyên đi du hành khắp nơi để giảng dạy Phật pháp, đến các vùng thành thị, thôn quê, đến các nước lân cận. Quốc vương Champa rất kính cẩn mời Phật hoàng giảng giải giáo nghĩa. Thông qua Phật pháp, Phật Hoàng đã tạo mối quan hệ hợp tác, hòa bình, hữu nghị với các nước lân cận. Người sáng lập nền Phật giáo Trúc Lâm và dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử được các thế hệ nhân dân ta tôn xưng là Phật Hoàng.
5. Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là nhà sư có sự ảnh hưởng tích cực ở phương Tây về hòa bình, ông được tờ New York Times của Mỹ đánh giá là nhà sư có ảnh hướng lớn thứ 2 về Phật Giáo tại phương Tây, sau Đạt Lai Lạt Ma. Ông cũng được nhà hoạt động nổi tiếng của Mỹ là Martin Luther King Jr. đề cử cho giải Nobel Hòa bình.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh sinh khoảng năm 1926 tại Thừa Thiên – Huế. Ông xuất gia khá sớm khi chỉ mới 16 tuổi và được ban pháp danh Thích Nhất Hạnh tại chùa Từ Hiếu. Năm 23 tuổi, chính thức trở thành nhà sư. Về sau, đất nước chìm trong chiến tranh, các nhà sư thời này có hai sự lựa chọn: một là tiếp tục tu tập trong chùa, hai là ra ngoài để giúp người dân ngoài kia đang gánh chịu những đau khổ do bom dội. Thiền sư là người chọn cách thứ ba – vừa ra ngoài giúp người dân, vừa tu tập bằng cách khởi xướng phong trào Phật giáo dấn thân. Vì theo ông: ‘Khi bom dội vào đầu chúng sinh, bạn không thể ngồi trong thiền viện, Thiền là nhận thức về những gì đang xảy ra, không chỉ bên trong mà còn xung quanh cơ thể và cảm xúc của bạn’.
Năm 1961, ông rời Việt Nam để sang Hoa Kỳ nghiên cứu tại Đại học Princeton (New Jersey) và giảng dạy tại Đại học Columbia (New York). Ở Mỹ, Thiền sư tích cực vận động dư luận thế giới phản đối chính sách kỳ thị và đàn áp của chính quyền cũ đối với phong trào Phật giáo trong nước. Ngày 01/11/1963, ông trở về nước tham gia hoạt động chấn hưng Phật giáo theo lời kêu gọi của Thượng tọa Thích Trí Quang.
Một thời gian sau, Thiền sư lại phải rời quê hương để đi du thuyết tại nhiều nước Châu Âu kêu gọi hòa bình cho Việt Nam. Nhờ có chuyến đi này, ông gặp nhà hoạt động, Mục sư nổi tiếng của Mỹ là Martin Luther King Jr. – cũng là người đề cử ông cho giải Nobel Hòa bình vào năm 1967.
Việc ông đi khắp các nước Châu Âu để kêu gọi hòa bình cho đất nước Việt Nam được lòng giới trí thức nước ngoài nhưng lại không được lòng các nhà cầm quyền Việt Nam thời bấy giờ, nên ông bị cấm không được trở về quê hương trong vòng 39 năm sau. Dù vậy, ông vẫn tích cực thực hiện những hoạt động Phật giáo như tổ chức các khóa tu thiền cho người Israel và Palestine; kêu gọi các nước đang tham gia chiến tranh hãy đình chiến và tìm những giải pháp ôn hòa để kết thúc các mâu thuẫn ấy. Năm 2005, tại Los Angeles, ông tổ chức buổi diễu hành vì hòa bình cùng sự tham gia của hàng ngàn người dân.
Sau một khoảng thời gian dài không được trở về quê hương, năm 2005 ông đã quay lại Việt Nam. Năm 2007, ông đi khắp đất nước để tổ chức các khóa tu, buổi pháp thoại, gặp gỡ các tăng ni, phật tử. Cùng năm này, được sự cho phép, ông đã tổ chức buổi cầu nguyện, giải trừ gian khổ cho những người từng chịu hậu quả do chiến tranh. Năm 2014, Thiền sư hôn mê do xuất huyết não. Đến năm 2018, ông trở về Việt Nam để tĩnh dưỡng.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh mất ngày 22 tháng 1 năm 2022 tại chùa Từ Hiếu, Thành phố Huế.
Các vị thiền sư ấy đã cống hiến hết mình cho nền lịch sử Việt Nam nói chung và nền văn hóa Phật giáo nói riêng. Tuy mỗi người có cách cống hiến khác nhau nhưng đều mang đến những giá trị tốt đẹp cho nhân loại.
Theo đó, quan điểm “Phật ở khắp mọi nơi”, “Đạo và Đời không tách biệt”, “Tất cả đều là Phật Pháp” đã trở thành triết lý kinh điển để những vị cao tăng nước Việt chẳng những tinh thông Phật Pháp, giáo hóa dân chúng mà còn đóng góp tài đức vào chính sự nước nhà giúp chấm dứt chiến tranh, mang hòa bình đến cho dân chúng. Thật là một việc làm cao quý!
Ý Nghĩa Sống xin kết thúc phần chia sẻ về 5 Vị Thiền Sư ảnh hưởng nhất trong lịch sử Việt Nam với bài kệ của thiền sư Vạn Hạnh trước khi thị tịch, theo bản dịch của Ngô Tất Tố rằng:
“Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cối xanh tươi thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông”.
Nguyễn Dương Thị Ngọc Ánh tổng hợp và biên tập
Tổng quan về Truyện Kiều – Nguyễn Du