Dẫn đầu không chỉ về doanh thu, số lượng nhân sự, mà còn cả về chuỗi bán hàng trên toàn nước Mỹ nói riêng và nhiều nước trên thế giới nói chung trong những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, nên WALMART được cho là một đế chế bán lẻ hùng mạnh; và SAM WALTON, người sáng lập nên WALMART được người đời gọi ông với danh xưng là Ông Vua Bán Lẻ của Mỹ. Ông được vinh danh trong Top 100 người có tầm ảnh hưởng nhất thế giới trong thế kỷ 20.
Sinh ra trong gia đình nông dân ở Mỹ, lớn lên trong giai đoạn Đại Suy Thoái, nhưng “cậu bé đa năng” SAM WALTON đã có một tuổi thơ rất đáng tự hào với một quá trình nỗ lực không hề nhỏ để giúp gia đình vượt khó, và giúp ông chinh phục giấc mơ đại học.
Bình minh của thiên tài không được trải hoa hồng, tuy nhiên ông không nề hà bất cứ công việc gì ngay cả việc giao hàng cho một tiệm giặt ủi đã giúp SAM WALTON nhận ra cơ hội của ngành bán lẻ, ông đã dốc túi và bắt tay ngay vào việc khởi nghiệp. Vậy điều gì đã giúp SAM WALTON trở thành Ông Vua Bán Lẻ của Mỹ?

Bạn đọc cũng có thể xem thêm một số doanh nhân nổi tiếng tại đây:
Coco Chanel – Con đường trở thành Bà Hoàng ngành Thời Trang
Ông chủ KFC Harland Sanders – Khởi nghiệp không phân biệt tuổi tác
Cậu bé đa năng nhất
Sam Walton (1918-1992), sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở tiểu bang. Vào giai đoạn đại khủng hoảng của nước Mỹ, gia đình Sam cũng như nhiều gia đình khác đều phải chịu ảnh hưởng nặng nề. Ông lớn lên trong tình trạng gia đình kiệt quệ và túng thiếu.
Nhận thức vai trò của mình là phải hỗ trợ chứ không thể dựa dẫm hoàn toàn vào gia đình, Ông đã làm việc cho Công ty Thế chấp Walton, là đại lý cho Bảo hiểm Nhân thọ Metropolitan.
Khi đang học lớp tám ở Shelbina, Missouri, Sam trở thành hướng đạo sinh Eagle trẻ nhất trong lịch sử của bang. Và nhận được Giải thưởng Hướng đạo EAGLE Xuất sắc từ Hội Nam Hướng đạo Hoa Kỳ.
Khi gia đình chuyển đến Columbia, Missouri. Lớn lên trong thời kỳ Đại suy thoái, ông đã làm những công việc nhà để giúp trang trải tài chính cho gia đình như một điều bình thường vào thời điểm đó. Ông vắt sữa bò cho gia đình, đóng chai phần còn lại và chở nó cho khách hàng. Sau đó, ông giao các tờ báo Columbia Daily Tribune trên đường giấy. Ngoài ra, ông còn bán các đăng ký tạp chí và nhiều công việc khác. Khi tốt nghiệp trường trung học David H. Hickman ở Columbia, anh đã được bình chọn là “Chàng trai đa năng nhất”.
Trong thời gian này, ông đã hiểu được giá trị của lao động, và rèn luyện cho mình sự chăm chỉ lao động, chia sẻ gánh nặng mưu sinh cùng gia đình, cũng như góp phần trang trải chi phí cho việc học của chính bản thân mình. Ông đã học được từ gia đình đức tính cần cù lao động và tiết kiệm. Đức tính này đã giúp định hình nên tính cách của ông Vua Bán Lẻ đến cuối đời và là chìa khóa đưa ông đến thành công.
Bình minh của thiên tài
Walton gia nhập J. C. Penney với tư cách là thực tập sinh quản lý ở Des Moines, Iowa, ba ngày sau khi tốt nghiệp đại học. Vị trí này đã trả cho anh ta 75 đô la một tháng. Walton đã dành khoảng 18 tháng với J. C. Penney. Ông từ chức năm 1942 với hy vọng được giới thiệu vào quân đội để phục vụ trong Thế chiến thứ hai. Trong thời gian chờ đợi, anh ấy làm việc tại một nhà máy sản xuất bom, đạn DuPont gần Tulsa, Oklahoma. Ngay sau đó, Walton gia nhập quân đội trong Quân đoàn Tình báo Quân đội Hoa Kỳ, giám sát an ninh tại các nhà máy sản xuất máy bay và các trại tù binh. Ở vị trí này, ông phục vụ tại Pháo đài Douglas ở Thành phố Salt Lake, Utah. Cuối cùng ông ta đã đạt đến cấp bậc đại úy.
Cửa hàng đầu tiên
Năm 1945, sau khi rời quân ngũ, Walton tiếp quản cửa hàng tạp hóa đầu tiên của mình ở tuổi 26. Với sự giúp đỡ của khoản vay 20.000 đô la từ bố vợ, cộng với 5.000 đô la anh tiết kiệm được từ thời còn trong Quân đội, Walton đã mua một cửa hàng tạp hóa Ben Franklin ở Newport, Arkansas. Cửa hàng là một thương hiệu nhượng quyền của chuỗi Butler Brothers.
Walton đã đi tiên phong trong nhiều khái niệm quan trọng đối với sự thành công của ông. Theo Walton, nếu ông đưa ra giá tốt hơn so với các cửa hàng ở các thành phố cách đó bốn giờ đi xe hơi, mọi người sẽ mua sắm tại cửa hàng của ông. Walton đảm bảo rằng các kệ hàng luôn được dự trữ với nhiều loại hàng hóa. Cửa hàng thứ hai của ông, cửa hàng bách hóa “Eagle” nhỏ bé, nằm trên con phố từ Ben Franklin đầu tiên của ông ấy và bên cạnh đối thủ cạnh tranh chính của nó ở Newport.
Với doanh số bán hàng tăng từ 80.000 đô la lên 225.000 đô la trong ba năm, Walton đã thu hút sự chú ý của chủ nhà, P. K. Holmes, gia đình có kinh nghiệm bán lẻ. Ngưỡng mộ thành công rực rỡ của Sam, và mong muốn đòi lại cửa hàng (và quyền nhượng quyền thương mại) cho con trai mình, vị chủ nhà đã từ chối gia hạn hợp đồng thuê. Việc không có lựa chọn gia hạn, cùng với giá thuê cao ngất ngưởng là 5% doanh thu, là những bài học kinh doanh ban đầu cho Walton. Mặc dù ép buộc Walton ra ngoài, Holmes vẫn mua hàng tồn kho và đồ đạc của cửa hàng với giá 50.000 đô la, mà Walton gọi là “một mức giá hợp lý”.
Phát triển nhanh chóng chuỗi cửa hàng bán lẻ
Sau khi thành công với hai cửa hàng ở khoảng cách như vậy (và với sự bùng nổ thời kỳ hậu chiến đang phát huy hết tác dụng), Sam trở nên hăng hái tìm kiếm nhiều địa điểm hơn và mở thêm nhiều thương hiệu khác của Ben Franklin. (Ngoài ra, sau vô số giờ ngồi sau tay lái, cùng với người anh em thân thiết James “Bud” Walton từng là phi công trong chiến tranh, ông ấy đã quyết định mua một chiếc máy bay đã qua sử dụng nhỏ đã giúp ông do thám các địa điểm nhanh chóng và mở rộng công việc kinh doanh của gia đình).
Năm 1954, ông mở một cửa hàng cùng với anh trai Bud tại một trung tâm mua sắm ở Ruskin Heights, ngoại ô Thành phố Kansas, Missouri. Với sự giúp đỡ của anh trai và bố vợ, Sam tiếp tục mở nhiều cửa hàng tạp hóa mới. Anh ấy khuyến khích các nhà quản lý của mình đầu tư và nhận cổ phần trong doanh nghiệp, với mức giá lên tới $ 1000 trong cửa hàng của họ hoặc mở cửa hàng tiếp theo. (Điều này thúc đẩy các nhà quản lý trau dồi kỹ năng quản lý và nắm quyền sở hữu trong doanh nghiệp.). Đến năm 1962, cùng với anh trai Bud, ông sở hữu 16 cửa hàng ở Arkansas, Missouri và Kansas (mười lăm cửa hàng Ben Franklin và một cửa hàng độc lập, ở Fayetteville).
Việc khuyến khích các nhà quản lý đầu tư và nhận cổ phần trong doanh nghiệp là một trong những cách tuyệt vời để đắc nhân tâm, nhờ vậy Sam Walton thu hút được ngày càng nhiều nhân sự chất lượng, đồng thời tạo điều kiện cho người lao động cơ hội gắn bó lâu dài, bền vững, giúp chuỗi bán lẻ của Sam Walton ngày càng hùng mạnh.
Cửa hàng walmart đầu tiên
Walmart thực sự đầu tiên khai trương vào ngày 2 tháng 7 năm 1962, tại Rogers, Arkansas. Được gọi là cửa hàng Thành phố Giảm giá Wal-Mart, nó nằm ở số 719 Phố Tây Walnut. Ông đã đưa ra một nỗ lực quyết tâm để tiếp thị các sản phẩm do Mỹ sản xuất. Bao gồm sự sẵn sàng tìm kiếm các nhà sản xuất Mỹ có thể cung cấp hàng hóa cho toàn bộ chuỗi Walmart với mức giá đủ thấp để đáp ứng sự cạnh tranh của nước ngoài.
Trái ngược với thông lệ phổ biến của các chuỗi cửa hàng giảm giá ở Mỹ, Walton đặt các cửa hàng ở các thị trấn nhỏ hơn, không phải các thành phố lớn hơn. Để gần người tiêu dùng, lựa chọn duy nhất vào thời điểm đó là mở cửa hàng ở các thị trấn nhỏ. Mô hình của Walton cung cấp hai lợi thế. Thứ nhất, sự cạnh tranh hiện tại được hạn chế và thứ hai, nếu một cửa hàng đủ lớn để kiểm soát hoạt động kinh doanh trong thị trấn và các khu vực lân cận, các thương gia khác sẽ không muốn tham gia thị trường. Đây chính là đặc trưng của cạnh tranh theo chiến lược Đại Dương Xanh, theo đó doanh nghiệp cạnh tranh bằng cách tham gia vào thị trường mới/thị trường ngách mà ít người quan tâm, đồng thời cạnh tranh bằng nguồn lực.
Để làm cho mô hình của mình hoạt động, ông nhấn mạnh đến công tác hậu cần, đặc biệt là xác định vị trí các cửa hàng trong vòng một ngày lái xe từ các kho hàng trong khu vực của Walmart và phân phối thông qua dịch vụ vận tải đường bộ của chính công ty. Mua số lượng lớn và giao hàng hiệu quả cho phép bán hàng hiệu giảm giá. Do đó, Walmart ttăng trưởng bền vững – từ 190 cửa hàng năm 1977 đến 800 cửa hàng năm 1985.
Với quy mô và tầm ảnh hưởng kinh tế của mình, Walmart được ghi nhận là có tác động đáng kể đến bất kỳ khu vực nào mà nó thiết lập cửa hàng. Những tác động này, cả tích cực và tiêu cực, được mệnh danh là “Hiệu ứng Walmart”.
Sam Walton được coi là một trong những nhà kinh doanh vĩ đại nhất trong ngành chuỗi bán lẻ. Ông có một niềm đam mê lớn đối với việc học hỏi, chia sẻ. Ông thường xuyên thực hiện các chuyến thăm không báo trước đến các Walmarts trên khắp đất nước để tìm hiểu những đổi mới của địa phương đang hoạt động và sau đó có thể chia sẻ với các Walmarts khác. Trong một lần đến thăm đó, ông đã bối rối khi một người chào hỏi nói “xin chào” ở lối vào của cửa hàng và hỏi anh ta đang làm gì. Người chào hỏi giải thích rằng công việc chính của anh ta là ngăn cản những người bán hàng lấy hàng hóa chưa thanh toán ra khỏi cửa hàng qua lối vào. Walton rất vui và chia sẻ sự đổi mới với “các cộng sự” trong suốt chuỗi của mình.
Với Sam Walton “Bí quyết thành công của một người bán lẻ hàng hóa là phải mang lại cho khách hàng những điều mà họ muốn. Nhưng như vậy chưa đủ, để trở thành xuất sắc, khách hàng phải được hưởng nhiều hơn cái họ chờ đợi. Hãy luôn đặt mình vào vị trí của khách hàng để xem họ muốn gì: Hàng hóa chất lượng tốt và phong phú? Giá thành thấp nhất? Độ tin cậy tối đa? Dịch vụ tận tình? Giờ giấc thuận tiện? Nơi đỗ xe miễn phí? Tất nhiên, khi họ thấy yên tâm, họ sẽ tiếp tục tới cửa hàng. Còn ngược lại, cũng sẽ dễ hiểu nếu chúng ta không bao giờ gặp lại những khách hàng không được thỏa mãn nhu cầu”.
Dưới bảng hiệu Wal-Mart, có hai dòng chữ sau này trở thành phương cách làm việc nổi tiếng: “Chúng tôi bán với giá thấp hơn” và “Đảm bảo thỏa mãn khách hàng”. Trong cuộc đời kinh doanh sóng gió của mình, Sam vẫn giữ vững phương châm ấy.
Đời sống cá nhân
Walton kết hôn với Helen Robson vào ngày lễ tình nhân, ngày 14 tháng 2 năm 1943. Họ có bốn người con. Walton đã hỗ trợ các hoạt động từ thiện khác nhau. Walton đã đưa khái niệm “lãnh đạo phục vụ” vào cấu trúc doanh nghiệp của Walmart và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phục vụ người khác dựa trên cơ sở Cơ đốc giáo.
Walton qua đời vào năm 1992 tại Little Rock. Tin tức về sự qua đời của ông đã được vệ tinh chuyển tiếp đến tất cả 1.960 cửa hàng Walmart. Vào thời điểm đó, công ty của ông có 380.000 nhân viên. Doanh thu hàng năm gần 50 tỷ đô la đến từ 1.735 Walmarts, 212 Sam’s Clubs và 13 Supercenters. Đế chế Walmart hiện được điều hành bởi các hậu duệ của Sam Walton.
Forbes xếp hạng Sam Walton là người giàu nhất Hoa Kỳ từ năm 1982 đến năm 1988. Gia đình Walton giữ năm vị trí trong top mười người giàu nhất Hoa Kỳ cho đến năm 2005.
Năm 1998, Walton được Time đưa vào danh sách 100 người có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Sam Walton là tác giả của cuốn sách “Cuộc đời kinh doanh tại Mỹ”.
Walton được vinh danh vì công việc của mình trong lĩnh vực bán lẻ vào tháng 3 năm 1992, chỉ một tháng trước khi ông qua đời, khi ông nhận được Huân chương the Presidential Medal of Freedom từ Tổng thống lúc bấy giờ là George H. W. Bush.
16 bài học kinh doanh rút ra từ câu chuyện thành công của vua bán lẻ Sam Walton
1.Nhanh chóng nắm bắt cơ hội khi nhìn thấy tiềm năng của thị trường
2.Lường trước rủi ro từ việc cạnh tranh để bổ sung chế tài vào Hợp đồng Thuê Nhà
3.Am hiểu nhu cầu của khách hàng
4.Tìm mọi giải pháp để thỏa mãn nhu cầu mua hàng của khách hàng
5.Hãy ở gần khách hàng
6.Nâng cao năng lực cạnh tranh bằng việc ưu tiên chọn thị trường chưa có sự xuất hiện của đối thủ.
7.Dựa vào số lượng để cắt giảm chi phí tối đa, để luôn bán với giá thấp hơn.
8.Dùng nguồn lực và quy mô để các đối thủ nhỏ rút lui
9. Liên tục học hỏi và đổi mới
10.Chia sẻ tầm nhìn, bán cổ phần cho nhân viên để giữ chân nhân tài
11.Mạnh dạn đầu tư những phương tiện giúp việc khảo sát thị trường và do thám đối thủ một cách nhanh nhất.
12.Lãnh đạo phục vụ, lãnh đạo làm gương cho cấp dưới.
13. Hãy yêu lao động
14. Sống có trách nhiệm,
15. Chia sẻ với mọi người.
16. Dám dấn thân.
Tham khảo: Wikipedia
Bạn có thể xem thêm video tại đây:
Xem thêm:
20 câu nói tinh tuý của Quỷ Cốc Tử
Chung Ju Yung – Vị chủ tịch huyền thoại của tập đoàn Hyundai