“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
Những câu thơ trên chính là bản tuyên ngôn độc lập hào hùng của quan quân nhà Lý đã sử dụng trong cuộc chiến đánh quân Tống xâm lược với sự chỉ huy của anh hùng dân tộc Thường Kiệt dưới thời vua Lý Nhân Tôn và Thái hậu Ỷ Lan. Lý Thường Kiệt thường được nhớ đến về tài năng văn võ song toàn, dung mạo tuấn tú xuất chúng, đức độ mẫu mực.
Ông thống lĩnh ba quân của Đại Việt (dưới thời vua Lý Nhân Tôn và Thái Hậu Ỷ Lan) tấn công và dành chiến thắng tại 3 châu (châu Khâm, châu Liêm, châu Ung) của Trung Quốc dưới thời vua Tống Thần Tông làm cho quân Tống phải kinh sợ. Khi đã 84, 85 tuổi ông vẫn ra trận dẹp giặc phản loạn và giành chiến thắng cho Đại Việt với tấm lòng tận trung báo quốc. Hãy cùng xem về Lý Thường Kiệt và 6 trận đánh đỉnh cao của Lý Thường Kiệt đã làm rạng danh sử Việt và những Binh Pháp tiêu biểu mà ông đã sử dụng.
Lý Thường Kiệt (chữ Hán: 1019 – 1105) là một nhà quân sự, nhà chính trị rất nổi tiếng vào thời nhà Lý nước Đại Việt.
Ông vốn là người phường Thái Hòa của thành Thăng Long. Lý Thường Kiệt là tên được Vua Lý Thánh Tông ban cho ông (còn gọi là quốc tính). Ông tên thật là Tuấn, chưa rõ họ thật.
Ông làm quan qua 3 triều Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và đạt được nhiều thành tựu to lớn, khiến ông trở thành một trong những danh tướng vĩ đại nhất nhà Lý.
Trong lịch sử Việt Nam, ông nổi bật với việc chinh phạt Chiêm Thành (1069), đánh phá 3 châu Khâm, Ung, Liêm nước Tống (1075–1076), rồi đánh bại cuộc xâm lược Đại Việt của quân Tống do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy. Đặc biệt, trận chiến ở ba châu Khâm, Ung, Liêm đã khiến tên tuổi của ông vang dội ra khỏi Đại Việt và được biết đến ở đất Tống.
Năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch liệt tên ông vào một trong 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam.
Theo nhận xét của sách Đại Việt sử ký toàn thư, “Thường Kiệt người phường Thái Hoà, thành Thăng Long, dòng dõi làm quan, nhiều mưu lược, có tài làm tướng”.
Từ nhỏ Lý Thường Kiệt đã tỏ ra là người có chí hướng và nghị lực, chăm học tập, rèn luyện cả văn lẫn võ, từng nghiên cứu về binh pháp.
Lớn lên, Lý Thường Kiệt nổi tiếng với dung mạo tuấn tú xuất chúng, Văn võ toàn tài, đức độ mẫu mực. Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim đánh giá Lý Thường Kiệt như sau “Ông là vị tướng tài, tinh thao – lược, bắc đánh Tống, nam bình Chiêm, thật là một người danh tướng nước ta vậy”
Ông được thụ phong làm Phụ quốc Thái phó, Dao thụ chư trấn Tiết độ, Đồng trung thư môn hạ, Thượng trụ quốc, Thiên tử nghĩa đệ, Phụ quốc thượng tướng quân, Thái Uý, Khai Quốc Công.
Trong Bài bia ký chùa Báo Ân núi An Hoạch, Chu Văn Thường – một quan chức ở quận Cửu Chân, trấn Thanh Hóa đời Lý Nhân Tông ca ngợi Lý Thường Kiệt:
Nay có Thái úy Lý công, giúp vua thứ tư triều Lý… Ông đứng trước tiết lớn, vâng mệnh phù nguy, là người có thể gửi gắm đứa con côi, ủy thác mệnh lệnh ngoài trăm dặm. Rồi đó ông thề trước ba quân: phía Bắc đánh quân Tống xâm lược, phía Tây đánh bọn không lại chầu, giỏi thắng địch bằng sách lược bảy lần bắt bảy lần đều thả. Đâu phải riêng nhà Hán có công huân Hàn, Bành, nước Tề có sự nghiệp Quản, Án. Riêng ông giúp vua thì nước nhà giàu thịnh nhiều năm. Đó chính là công tích rực rỡ của đạo làm tôi có thể để lại nghìn đời sau vậy.
Chu Văn Thường
Bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn cũng ca ngợi ông:
Làm việc thì siêng năng, điều khiển dân thì đôn hậu, cho nên dân được nhờ cậy. Khoan hòa giúp đỡ trăm họ, nhân từ yêu mến mọi người, cho nên nhân dân kính trọng. Dùng uy vũ để trừ gian ác, đem minh chứng để giải quyết ngục tụng, cho nên hình ngục không quá lạm. Thái úy biết rằng dân lấy sự no ấm làm đầu, nước lấy nghề nông làm gốc, cho nên không để nỡ thời vụ. Tài giỏi mà không khoe khoang. Nuôi dưỡng đến cả những người già ở nơi thôn dã, cho nên người già nhờ thế mà được yên thân. Phép tắc như vậy có thể là cái gốc trị nước, cái thuật yên dân, sự tốt đẹp đều ở đấy cả.
Bia chùa Linh Xứng
Sử thần nhà Lê Trung hưng Ngô Thì Sĩ, trong sách Việt sử tiêu án, đã đề cao Lý Thường Kiệt qua việc so sánh chiến công đánh Tống của ông với các chiến thắng của Ngô Quyền, Lê Đại Hành và Trần Hưng Đạo:
Nước ta đánh nhau với quân nước Trung Hoa nhiều lần, từ vua Nam Đế trở về trước, việc đã lâu rồi, sau này vua Ngô Tiên Chúa đánh trận Bạch Đằng, vua Lê Đại Hành đánh trận Lạng Sơn, vua Trần Nhân Tôn đánh đuổi được Toa Đô, Thoát Hoan, những trận được vẻ vang đó là câu chuyện hãnh diện của nước ta, nhưng đều là giặc đến đất nước, bất đắc dĩ mà phải ứng chiến. Còn đến đường đường chính chính đem quân vào nước người, khi đánh không ai địch nổi, khi kéo quân về không ai dám đuổi theo, như trận đánh Ung Liêm này thật là đệ nhất võ công, từ đấy người nước Tầu không dám coi thường chúng ta.
Việt sử tiêu án
Dưới đây là 6 thành tựu rực rỡ của Lý Thường Kiệt với những cống hiến to lớn cho nước Đại Việt
1. Phủ dụ 5 châu, 6 huyện, 3 nguồn, 24 động. giúp an dân
Năm 1061, người Man ở biên giới Tây Nam quấy rối. Sách Việt điện u linh, chuyện về Lý Thường Kiệt có chép như sau:“Gặp lúc trong nước, ở cõi Tây Nam, dân nổi lên chống các thuộc lại, dân Man Lào lại hay tới quấy rối. Vua Lý Thánh Tông thấy ông siêng năng, cẩn thận, khoan hồng bèn sai ông làm Kinh phỏng sứ vào thanh tra vùng Thanh Hóa, Nghệ An, vào trao quyền tiện nghi hành sự. Ông phủ dụ dân khôn khéo, nên tất cả năm châu, sáu huyện, ba nguồn, hai mươi bốn động đều quy phục và được yên ổn”.
Về việc loạn này, trong sách Đại Việt sử ký toàn thư không thấy chép. Duy chỉ sách Việt sử lược có biên rằng: “Năm 1061, Ngũ Huyện Giang ở Ái Châu nổi loạn”. Ngũ Huyện Giang là tên một vùng thuộc phủ Thanh Hóa. Đời Tiền Lê và đời Lý thường dùng tên sông mà gọi đất có sông ấy, ví dụ Bắc Giang Lộ, Đà Giang Lộ. Theo hai bia đời Lý, là bia chùa Hương Nghiêm và mộ chí Lưu Khánh Đàm, Ngũ Huyện Giang chắc ở Thanh Hóa, là sông Mã ngày nay. Bấy giờ Thường Kiệt đã 43 tuổi, và đây là quân công nổi bật đầu tiên của ông.
Mặc dù Lý Thường Kiệt được vua trao quyền Tiện Nghi Hành Sự, nhưng ông không lạm dụng hình phạt mà chọn phương pháp đối thoại để phủ dụ an dân và giành được thành công. Thiết nghĩ, Tôn Tử từng nói: “Đại phàm cái phép dụng binh, làm cho cả nước địch khuất phục trọn vẹn là thượng sách, đánh nó là kém hơn.
Làm cho toàn quân địch chịu khuất phục là thượng sách, đánh nó là kém hơn. Làm nguyên lữ quân địch khuất phục là thượng sách, đánh nó là kém hơn. Làm nguyên một tốt địch khuất phục là thượng sách, đánh nó là kém hơn. làm nguyên một ngũ địch khuất phục là thượng sách, đánh nó là kém hơn.Thế nên bách chiến bách thắng cũng chưa phải cách sáng suốt trong sự sáng suốt. Không cần đánh mà làm kẻ địch khuất phục mới gọi là sáng suốt nhất trong sự sáng suốt.
Cho nên thượng sách trong việc dùng binh là lấy mưu lược để thắng địch, kế đó là thắng địch bằng ngoại giao, kế nữa là dùng binh thắng địch, hạ sách là tấn công thành trì.
Đánh thành là biện pháp bất đắc dĩ, chế tạo chiến xa, vũ khí phải mất 3 tháng mới hoàn thành, chuẩn bị binh mã lại mất 3 tháng nữa. Tướng sốt ruột xua quân đánh thành, thương vong 3 phần mất 1 mà vẫn chưa hạ được. Đó chính là cái hại của việc đánh thành. Cho nên người giỏi dụng binh, thắng địch mà không phải giao chiến, đoạt thành mà không cần tấn công, phá quốc mà không cần đánh lâu, nhất địch phải dùng mưu lược toàn thắng mà thủ thắng trong thiên hạ, quân không mỏi mệt mà vẫn giành được thắng lợi hoàn toàn.”.
Thế mới thấy tầm nhìn xa, tấm lòng thương dân và sự uyên thâm đạo binh gia của Lý Thường Kiệt tướng quân vậy.
2. Tiên phong bình định quân Chiêm Thành
Tháng 2 năm 1069, Lý Thường Kiệt theo vua Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành vì quân lính nước này thường hay quấy phá biên giới. Thường Kiệt làm tiên phong đi đầu, truy bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Cuối cùng, Chế Củ phải chịu hàng, dâng 3 châu để được tha về nước.
Vì có công trong cuộc chiến với Chế Củ, Thường Kiệt được ban quốc tính và từ đó ông chính thức được gọi là Lý Thường Kiệt. Bên cạnh vinh dự này, ông còn được hưởng tước và chức đáng kể, được thụ phong làm Phụ quốc Thái phó, kiêm các hàm như Dao thụ chư trấn Tiết độ, Đồng trung thư môn hạ, Thượng trụ quốc, Thiên tử nghĩa đệ cùng Phụ quốc thượng tướng quân.
Với danh xưng “Thiên tử nghĩa đệ”, Lý Thường Kiệt đã bán chính thức dự vào hàng quốc thích, và ông còn nhận được tước Khai quốc công.
3. Xây dựng tuyến phòng ngự vững chắc cho phía Nam, chống quân Chiêm Thành quấy phá
Năm 1074 quân Chiêm Thành lại ra cướp phá biên giới, Lý Thường Kiệt dẫn quân đi bình định chủ yếu để răn đe quân Chiêm Thành, quân Chiêm Thành liền rút vào cố thủ. Nhận thấy không nên để hao tổn lực lượng nhiều vào Chiêm Thành mà chủ yếu là phải bảo toàn lực lượng để đối phó với nhà Tống ở phía Bắc, nên Lý Thường Kiệt cho lui binh, sau khi đã củng cố và tăng cường thêm cho lực lượng ở lại phòng bị. Đồng thời Lý Thường Kiệt cho hoạ địa đồ hình thế núi sông của ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính.
Ngài đổi tên 2 châu phía trong, Địa lý thành Lâm Bình, Ma Linh thành Minh Linh, dặn dò quan sở tại chiêu mộ thêm dân chúng các nơi về ở, và lo phòng thủ cho chắc chắn rồi nhanh chóng lên đường về Kinh đô.
Chính sự nhìn nhận sâu sắc này của Lý Thường Kiệt đã bảo toàn lực lượng tạo tiền đề cho sự thắng lợi cho Quân Đại Việt trên đất Tống sau này.
4. Chủ động tấn công nước Tống, giành thắng lợi tại châu Khâm, châu Liêm, châu Ung
Năm 1075, Vương An Thạch cầm quyền chính nhà Tống, tâu với vua Tống (tức Tống Thần Tông) rằng Đại Việt bị Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi, và Lưu Di làm tri Quế Châu ngầm dấy binh người Man động, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện không được mua bán với Đại Việt.
Triều đình nhà Lý biết tin, Thái Uý Lý Thường Kiệt lúc ấy cho rằng “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc”, tức là ngồi chờ giặc đến rồi mới đánh trả lại thì chỉ là hạ sách. Chi bằng trong lúc chúng đang chuẩn bị lực lượng ở gần biên giới, mọi thứ hãy còn dang dở mà đem quân bất ngờ đến đánh trước mới là tốt hơn.
Đánh như thế là đánh trên thế mạnh và đánh đúng thời cơ, đánh mà quân thù không kịp phòng vệ. Chúng tưởng ta nội tình lục đục, trên dưới không đồng lòng là chúng lầm to. Chúng tưởng ta hao tổn lực lượng và sa lầy ở chiêm Thành là chúng cũng lầm to nốt. Như vậy, đánh một kẻ chủ quan thiếu phòng bị lại chưa đủ lông đủ cánh như thế thì rõ ràng chắc thắng hơn, dẫu rằng đường đất đi lại có xa và điều kiện tác chiến có khó hơn. Lời bàn của Lý Thái Uý lập tức được cả triều đình tán thưởng.
Nhà Lý đã thực hiện một chiến dịch đánh đòn phủ đầu vào cuối năm 1075 đầu năm 1076, phá hủy các căn cứ hậu cần chuẩn bị cho chiến tranh của nhà Tống. Thái hậu Ỷ Lan và vua Lý Nhân Tông lệnh cho Lý Thường Kiệt thống lĩnh đại binh và Phó tướng Tôn Đản đem hơn 100.000 quân đi đánh theo hai đường thuỷ và bộ vào Châu Khâm và châu Liêm (thuộc Quảng Đông – Trung Quốc):
+Quân bộ gồm 60.000 người do các tướng Tông Đản, Thân Cảnh Phúc, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An phụ trách, chỉ huy là Tôn Đản. Bộ binh tập trung ngay ở các châu Quảng Nguyên, Môn (Đông Khê), Quang Lang, Tô Mậu rồi tràn sang đánh các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn, châu Tây Bình, Lộc Châu. Một cánh quân khác đóng gần biên giới Khâm châu cũng kéo tới đánh các trại Như Hồng, Như Tích và Đề Trạo, “quân ta tới đâu như vào nhà trống không người”. Tôn Đản vây châu Ung.
+ Lý Thường Kiệt tổng chỉ huy 40.000 quân thủy cùng voi chiến đi đường biển từ châu Vĩnh An (Quảng Ninh) đổ bộ lên đánh các châu Khâm, Liêm;
Ngày 30 tháng 12 năm 1075, quân Đại Việt tiến vào chiếm thành Khâm châu, bắt toàn bộ quan quân nhà Tống mà không phải giao chiến một trận nào. Ba ngày sau, 2 tháng 1 năm 1076, Liêm Châu cũng thất thủ.
Khi được tin hai châu Khâm, Liêm đã mất, nhà Tống rất hoang mang, lo ngại, các tướng ở địa phương bối rối.
Trên các mặt trận, quân Đại Việt hoàn toàn làm chủ. Lý Thường Kiệt cho đạo quân ở Khâm và Liêm Châu tiến lên phía Bắc. Đạo đổ bộ ở Khâm Châu kéo thẳng lên Ung Châu. Đường thẳng dài chừng 120 cây số, nhưng phải qua dãy núi Thập Vạn. Còn đạo đổ bộ ở Liêm Châu tiến sang phía đông bắc, chiếm lấy Bạch Châu, dường như để chặn quân tiếp viện của Tống từ phía đông tới. Hẹn ngày 18 tháng 1 năm 1076, hai đạo quân sẽ cùng hội lại vây chặt lấy Ung Châu.
Ung Châu là một thành lũy kiên cố, do tướng Tô Giám cùng với 2.800 quân cương quyết cố thủ.
Vua Tống lệnh cho đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu.
Lại nói về tài năng của Thái Uý Lý Thường Kiệt, tuy là nước người, nhưng Lý Thái Uý nghiên cứu địa hình địa vật rất kỹ. Ngài cho đặt phục binh tại một nơi hiểm yếu trên con đường từ Quảng Tây tới, mà quân của Trương Thủ Tiết nhất định phải đi qua. Đó chính là cửa ải Côn Lôn tại Nam Ninh (nay thuộc thành phố Nam Ninh, Quảng Tây).
Một mặt vẫn cho quân vây hãm hai châu Khâm, Liêm. Mặt Khách, Lý Thái Uý rút một lực lượng mạnh và bố trí sẵn tại Côn Lôn. Khi toàn bộ quân của Trương Thủ Tiết rơi vào trận địa phục kích, quân ta từ hai bên nhất loạt dùng cung tên bắn ra. Hàng ngũ quân địch rối loạn. Lúc bấy giờ, quân ta từ bốn phía mới xông vào đánh cho quân Tống tan tành, Trương Thủ Tiết tử trận.
Sau khi nghe tin quân cứu viện bị đánh tan, hai viên tri châu Khâm, Liêm đều kéo cờ trắng ra hàng (tháng 11/1075). Quân ta vào thành, tịch thu lương thực, khí giới rồi lại tiếp tục tiến đánh châu Ung (tháng 1/1076). Lại thấy, Trong Binh Pháp Tôn Tử có nói “người giỏi dụng binh, lính mãn ngũ không gọi lại, lương thực không vận tải quá 3 lần, quân nhu lấy tại nước mình, lương thực giải quyết tại nước địch. Được vậy thì lương thảo cấp dưỡng cho quân đội sẽ được thoả mãn”. Như vậy, chúng ta mới thấy được tài năng dụng binh như thần của Lý Thường Kiệt.
Lại nói, Tri châu Ung là Tô Giám cố thủ không hàng. Quân Đại Việt đánh đến hơn 40 ngày. Sau cùng quân Việt dùng hỏa công, bắn các chất cháy như nhựa thông vào thành, trong thành thiếu nước, không thể chữa được cháy. Quân Đại Việt một mặt đốt đuốc ở nhiều hướng phụ để thu hút lược lượng địch, một mặt cho chồng bao đất cao đến hàng trượng để trèo lên thành ở hướng chính. Ngày thứ 42, thành bị hạ, tướng chỉ huy Tô Giám tự thiêu để khỏi rơi vào tay quân Đại Việt.
Quân Đại Việt từ đó vào được thành, đánh địch từ nhiều phía, và toàn thắng.
Lý Thường Kiệt chiếm xong thành Ung, lại lấy đá lấp sông ngăn cứu viện rồi đem quân lên phía Bắc lấy Tân Châu. Viên quan coi Tân Châu nghe thấy quân Đại Việt kéo gần đến thành liền bỏ thành chạy trốn. Mười vạn quân với ba trận thắng liên tiếp, đủ để cho quân Tống thấy được sức mạnh của Đại Việt, mục tiêu làm suy giảm sức mạnh của quân địch hoàn thành, Lý Thường Kiệt cho rút quân về.
5. Trận chiến trên sông Như Nguyệt
Do tiền đồn ở Ung Châu là căn cứ tập trung quân để nam tiến bị phá tan, nhà Tống phải điều động thêm nhân lực và lương thảo để thực hiện chiến tranh với Đại Việt bao gồm cả bộ binh lẫn thủy binh.
Tháng 3 năm 1076, nhà Tống sai Quách Quỳ làm chỉ huy, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, xúi giục Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn Đại Việt, nhưng quân Chiêm Thành và Chân Lạp không dám tiến vào Đại Việt. Quân Tống huy động khoảng 100.000 quân chiến đấu (45.000 binh từ biên giới với Liêu Hạ, số còn lại là binh trưng tập), 10.000 ngựa, 200.000 phu, đồng thời có sự hỗ trợ từ lực lượng thủy binh. Quân Tống muốn phát huy kỵ binh thì phải làm sao qua khỏi vùng hiểm trở, tới chỗ bằng, thì ngựa mới tung hoành được.
Quân Tống tràn xuống xâm lược Đại Việt theo 2 cánh:
+ Cánh 1: theo đường tắt qua dãy núi Đâu Đỉnh, tới phía tây bờ sông Phú Lương;
+ Cánh 2: Vòng sang phía đông đánh bọc hậu ở Giáp Khẩu (Chi Lăng) và thẳng tới sông Cầu.
Hoàng đế Lý Nhân Tông sai Thái Uý Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, lập chiến lũy sông Như Nguyệt (hay còn gọi là Sông Cầu) để chặn quân Tống. Sông Cầu từ địa phận Cao Bằng chảy đến Lục Đầu, hợp với sông Bạch Đằng. Từ Lục Đầu ra đến biển, là một cái hào tự nhiên sâu và rộng, che chở cho đồng bằng nước Việt để chống lại tất cả mọi cuộc ngoại xâm đường bộ từ Lưỡng Quảng kéo vào. Đối với đường sá từ châu Ung tới Thăng Long, thì sông Bạch Đằng không can hệ, vì đã có sông Lục Đầu, là cái hào ngăn trước rồi. Trái lại, sông Cầu rất quan trọng. Thượng lưu sông Cầu qua vùng rừng núi rất hiểm.
Chỉ có khoảng từ Thái Nguyên trở xuống là có thể qua dễ dàng, và qua rồi thì có đường xuôi. Nhưng sau sông, ở về phía tây có dãy núi Tam Đảo, là một cái thành không thể vượt. Chỉ có khoảng từ huyện Đa Phúc đến Lục Đầu là phải phòng ngự bờ nam mà thôi. Trong khoảng ấy, lại chỉ khúc giữa, từ đò Như Nguyệt đến chân núi Nham Biền, là có bến, có đường qua sông để tiến xuống miền nam một cách dễ dàng thẳng và gần.
Chiến lược của Lý Thường Kiệt
đem chủ lực chặn con đường từ trại Vĩnh Bình đến sông Cầu (Nam Định) bằng cách đặt những doanh đồn và phục binh ở hai ải tiếp nhau:
+ Phòng tuyến 1: ải Quyết Lý ở phía bắc châu Quang Lang.
+ Phòng tuyến 2: ải Giáp Khẩu (Chi Lăng) ở phía nam châu ấy.
+ Phòng tuyến 3: Nếu hai phòng tuyến ấy bị tan, thì phải cố thủ ở phòng tuyến thứ ba, tức là nam ngạn sông Cầu (Nam Định).
Tuyến phòng thủ của quân Đại Việt, Lý Thường Kiệt dựa vào sông núi, các đèo hiểm trở, các sông rộng và sâu. Từ trại Vĩnh Bình vào châu Lạng, phải qua dãy núi rậm, có đèo Quyết Lý, ở trên đường từ tỉnh Lạng Sơn đến Đông Mô ngày nay, vào khoảng làng Nhân Lý, ở phía bắc châu Ôn. Rồi lại phải qua dãy núi lèn (đá không phá đất), đá đứng như tường, ở giữa có đường đi rất hiểm: đó là ải Giáp Khẩu, tức là ải Chi Lăng, ở phía bắc huyện Hữu Lũng thuộc Lạng Sơn ngày nay. Về đường thủy, để chặn địch qua sông, quân Đại Việt chỉ cần đóng thuyền ở bến Lục Đầu thì đi đường nào cũng rất tiện và chóng.
Lý Thường Kiệt dùng các đội quân của các dân tộc thiểu số ở miền núi phía bắc nhằm quấy rối hàng ngũ của quân Tống. Các tướng Lưu Kỹ, Phò mã Thân Cảnh Phúc, Vi Thủ An đem quân hãm bước tiến quân Tống ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, đồng thời chặn một bộ phận thủy quân của nhà Tống từ Quảng Đông xuống… Trước binh lực mạnh của nhà Tống, sau các đợt chặn đánh tỉa của Đại Việt, Lý Thường Kiệt lui quân về phía nam Sông Cầu. Được sự giúp sức của nhân dân, Lý Thường Kiệt đã xây dựng một phòng tuyến trên sông Như Nguyệt (một đoạn của khúc sông Cầu) để biến nơi đây là nơi diễn ra trận đánh quyết định của cả cuộc chiến.
Chiến thuật của Lý Thường Kiệt
Khu vực phòng thủ mà Lý Thường Kiệt xây dựng chạy dài từ chân núi Tam Đảo (khoảng Đa Phúc) với nhiều chỗ núi ăn sát bờ sông hoặc rừng cây có mật độ dày đặc. Địa hình này có thể được lợi dụng để ngăn việc vượt sông dễ dàng, tạo điều kiện cho quân nhà Lý chỉ cần xây ở các khu vực đường giao thông, quan trọng nhất là đoạn Như Nguyệt, Thị Cầu và Vạn Xuân.
Để cản quân Tống qua sông, Lý Thường Kiệt sai đắp đê nam ngạc cao như bức thành để làm Chiến Luỹ của phòng tuyến. Trên thành, đóng tre làm giậu (tức là tường rào/hàng rào, dày đến mấy từng. Thành đất lũy tre, nối với dãy núi Tam Đảo, đã đổi thế sông Cầu (Nam Định) và bờ nam ngạn ra một dãy thành hào, che chở cả vùng đồng bằng Giao Chỉ. Thành hào ấy dài gần trăm cây số, khó vượt qua nhưng lại dễ phòng thủ hơn là một thành lẻ như thành Thăng Long.
Dưới bãi sông được bố trí các hố chông ngầm tạo thành một phòng tuyến rất vững chắc. Quân của nhà Lý đóng thành từng trại trên suốt chiến tuyến, mà quan trọng nhất là ba trại ở Như Nguyệt, Thị Cầu, Phấn Động. Mỗi trại binh có thể có thêm thủy binh phối hợp. Quân chủ lực do chính Lý Thường Kiệt chỉ huy đóng ở phủ Thiên Đức, một vị trí có thể cơ động chi viện nhiều hướng và khống chế mọi ngả đường tiến về Thăng Long.
Quân Tống tấn công lần thứ nhất
Quân Tống dưới sự chỉ huy của Quách Quỳ tiến tới bờ bắc sông Như Nguyệt không khó khăn lắm. Quách Quỳ thấy vậy cũng muốn thực hiện chiến lược đánh nhanh thắng nhanh mà vua Tống đã đề ra. Nhưng vì thủy binh chưa đến, Quách Quỳ quyết định cho quân đóng trại tại bờ bắc sông Như Nguyệt đối diện với phòng tuyến của quân nhà Lý để chờ thủy binh hỗ trợ cho việc vượt sông.
Quách Quỳ không hề biết rằng cánh thủy quân do Dương Tùng Tiên và Hòa Mâu chỉ huy đã bị thủy quân Đại Việt do Lý Kế Nguyên chỉ huy chặn đánh quyết liệt, liên tục tập kích hơn 10 trận, giặc điên cuồng mở đường máu để tiến vào châu thổ nước ta nhưng cả mười trận liều lĩnh đều bị đánh bại cả mười. Đặc biệt với thảm bại tại sông Đông Kênh, thủy quân Tống buộc phải rút lui về đóng án binh bất động ở cửa sông.
Sau một khoảng thời gian chờ đợi không thấy thủy quân đến hội sự, khoảng đầu tháng 2 năm 1077, Quách Quỳ dự định tổ chức vượt sông mà không có sự hỗ trợ của thủy quân. Tuy nhiên vì trước trại của Quách Quỳ tại Thị Cầu có một trại quân mạnh của nhà Lý án ngữ khiến Quỳ không dám cho quân vượt sông ở Thị Cầu. Cùng lúc, tướng Miêu Lý đóng tại Như Nguyệt báo với Quách Quỳ rằng quân Lý đã trốn đi và xin lệnh đem binh vượt sông. Quách Quỳ chấp nhận và tướng Vương Tiến bắc cầu phao cho đội xung kích của Miêu Lý khoảng 2.000 người vượt sông.
Lợi dụng được yếu tố bất ngờ, cuộc vượt sông đã thành công, đội xung kích của quân Tống đã chọc thủng được phòng tuyến của quân Lý, sẵn đà thắng, Miêu Lý định tiến nhanh về Thăng Long nhưng đến vùng Yên Phụ, Thụy Lôi thì bị phục kích, bao vây và chặn đánh dữ dội tại cầu Gạo, núi Thất Diệu. Miêu Lý cùng những binh sĩ còn sống chạy về phía Như Nguyệt nhưng đến nơi thì cầu phao đã bị hủy và gặp quân nhà Lý đón đánh và bị diệt gần hết, dù quân Tống đóng bên bờ bên kia có cố gắng cho bè sang hỗ trợ.
Thất bại của Miêu Lý đã làm cho Quách Quỳ hết sức tức giận và định xử tử viên “tướng kiêu” này. Mô tả trận đánh này, một tác giả đời Tống viết: “Binh thế dứt đoạn, quân ít không địch nổi nhiều, bị giặc ngăn trở, rơi xuống bờ sông”.
Như vậy, Quân Tống có kỵ binh dùng cầu phao để vượt sông, mở đường tiến công quyết liệt, có lúc đã chọc thủng chiến tuyến quân Đại Việt tràn qua sông Như Nguyệt, nhưng quân Đại Việt đều kịp thời phản kích, đẩy lùi quân Tống. Lý Thường Kiệt còn dùng chiến tranh tâm lý để khích lệ tinh thần quân Đại Việt chiến đấu. “Đang đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ, táng đảm, không đánh đã tan”:
Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Sông núi nước Nam, vua Nam ở. Rành rành định phận tại sách trời. Cớ sao lũ giặc sang xâm lược. Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời).
Quân Tống tấn công lần thứ hai
Sau thất bại này, Quách Quỳ nhận ra quân nhà Lý không bỏ bất cứ đoạn nào trên phòng tuyến, nên ông không dám vượt sông mà không có thủy binh nữa nên buộc phải chờ thủy binh tới. Vì thủy binh quân Tống khi ấy đã bị chặn lại ngoài biển nên không tiến vào được, buộc Quách Quỳ phải tổ chức đợt tấn công lần hai mà không có sự hỗ trợ của thủy binh. Lần này, quân Tống dùng một lực lượng mạnh hơn nhiều so với lần trước và đóng bè lớn với sức chứa khoảng 500 quân để vượt sông.
Quân Tống ồ ạt đổ sang bờ nam nhưng họ phải vừa ra sức chặt lớp trại rào tre, vừa phải chống lại các đợt phản công mãnh liệt của quân nhà Lý mà số binh tiếp viện lại không qua kịp nên quân bị vỡ trận và thiệt hại nặng. Đợt tấn công lần hai lại kết thúc với thất bại. Việc này đã khiến Quách Quỳ thấy rằng, nếu không có thủy binh hỗ trợ sẽ không thể vượt sông được, buộc phải ra lệnh đưa quân về thế phòng thủ và tuyên bố rằng: “Ai bàn đánh sẽ chém!”, phá sản ý định đánh nhanh thắng nhanh của nhà Tống. Họ chỉ dám thỉnh thoảng dùng máy bắn đá bắn sang bờ nam.
Quân Đại Việt đánh úp Quân Tống
Hai tháng sau đợt tấn công cuối cùng, quân Tống lâm vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan: họ ngày càng mệt mỏi, hoang mang vì chờ mãi thủy binh mà không thấy thủy binh đâu. Và thêm sự không hợp khí hậu Đại Việt, dù đã có thầy thuốc đi theo nhưng bệnh tật vẫn làm cho nhiều binh sĩ ốm và một số chết, nhưng lại không dám rút lui vì đó là một sự nhục nhã và tội lớn với triều đình nhà Tống.
Dù vậy, thế của quân Tống vẫn còn mạnh, họ vẫn cố thủ ở bờ bắc Như Nguyệt tìm cách dụ quân nhà Lý tấn công. Lý Thường Kiệt nhận ra đây là thời cơ tốt để tổ chức tiến công, ông nghiên cứu cách bố phòng của quân Tống và tổ chức các đợt tấn công theo kiểu tập kích chia cắt quân Tống.
Đầu tiên, ông mở một đợt tấn công vào khối quân của Quách Quỳ đang đóng ở Thị Cầu nhằm kéo sự chú ý của toàn bộ quân Tống về hướng này dù biết rằng Quách Quỳ có một khối quân khá lớn và bố phòng rất cẩn thận. Ông lệnh cho hai tướng Hoằng Chân và Chiêu Văn dùng 400 chiếc thuyền chở khoảng 2 vạn quân từ Vạn Xuân tiến lên Như Nguyệt. Đoàn thuyền vừa đi vừa phô trương thanh thế nhằm kéo sự chú ý của toàn bộ quân Tống về hướng họ. Quân Lý đổ quân lên bờ bắc tấn công thẳng vào doanh trại quân Tống.
Thời gian đầu họ chiếm ưu thế, đẩy quân Tống vào sâu, buộc quân Tống phản huy động hết lực lượng và đem cả đội thân quân ra đánh. Tất cả các thuộc tướng cao cấp của Quách Quỳ như Yên Đạt, Trương Thế Cự, Vương Mẫn, Lý Tường, Diên Chủng đều có mặt trong chiến địa. Thời gian sau, quân Tống lấy lại hàng ngũ tổ chức phản công, đẩy quân Lý lên thuyền để rút đi.
Đồng thời quân Tống còn cho máy bắn đá bắn với theo, đánh chìm một số chiến thuyền. Trận này quân Lý thiệt hại nặng, 2 tướng Hoằng Chân và Chiêu Văn cùng mấy nghìn quân tử trận. Tuy nhiên, khi mọi sự chú ý của quân Tống đều đổ dồn về phía trại quân Quách Quỳ, thì Lý Thường Kiệt đích thân dẫn đại quân đánh vào doanh trại của Triệu Tiết.
Triệu Tiết đóng tại bắc Như Nguyệt trên một khu vực tương đối rộng và quang đãng, chính giữa là trại quân chính gọi là Dinh, hai bên trái phải là khu đất Miễu và Trại, bố trí theo kiểu dã chiến không lũy tường tổ chức phòng ngự tạm. Triệu Tiết có chừng 3 đến 4 vạn quân chiến đấu, nhưng một số đã được điều đi tiếp ứng cho trại quân Quách Quỳ đang bị tấn công. Chính vì vậy, khi cánh quân của Lý Thường Kiệt bất ngờ vượt sông tập kích, quân của Triệu Tiết nhanh chóng bị đánh bại, thương vong trên một nửa quân số đến gần hết. Số quân Tống chết nằm la liệt cái gò nơi họ đóng quân, về sau cư dân địa phương gọi đó là gò Xác hay cánh đồng Xác.
Hai đợt tấn công này đã khiến quân Tống lâm vào cảnh ngặt nghèo, thế phòng ngự bị rung chuyển và có khả năng sẽ bị đánh bại hoàn toàn nếu vẫn tiếp tục cố thủ.
Quân Tống tiến không được, thoái không xong, hao mòn vì chiến sự và khí hậu, không được thủy quân tiếp viện. Quân Đại Việt lại tập kích, doanh trại của Phó tướng Triệu Tiết bị phá, dù quân Tống cũng giết được hai tướng Đại Việt là Hoàng Chân và Chiêu Văn. Quân Tống 10 phần chết đến 6, 7 phần.
Lý Thường Kiệt biết tình thế quân Tống đã lâm vào thế bí, nhà Lý muốn kết thúc chiến tranh, phục hồi kinh tế nên đã chủ động giảng hòa với quân Tống. Ông còn cấp cho Quách Quỳ tàu bè và lương thực để có thể về nước. Quân ta giành chiến thắng, bảo vệ nền độc lập của đất nước. Quách Quỳ vội chấp nhận giảng hòa và rút quân. Sách Việt Sử kỷ yếu của Trần Xuân Sinh dẫn cổ sử nói về nội tình của nhà Tống về sự kiện này: Triều thần nhà Tống cho rằng “Cũng may mà lúc đó Đại Việt lại xin giảng hòa, không thì chưa biết làm thế nào”.
Chiến thắng này đã đánh dấu sự thành công nhiều chiến lược và chiến thuật chiến tranh phòng thủ và chủ động tấn công của danh tướng Lý Thường Kiệt trước một đế chế lớn hơn nhiều lần.
Trong chiến dịch đánh Đại Việt, quân Tống mất tổng cộng 76.600 quân và 8 vạn phu. Toàn bộ chi phí chiến tranh ngốn mất 5.190.000 lạng vàng. Thất bại này đã làm cho nhà Tống mất hẳn ý chí xâm lược Đại Việt hay “quận Giao Chỉ” theo cách gọi của họ khi đó.
Tổng kết Binh Pháp của Lý Thường Kiệt đã sử dụng trong trận Như Nguyệt
+ Thiết lập 3 phòng tuyến phục binh tại Quyết Lý, Giáp Khẩu, Sông Cầu làm suy giảm lực lượng địch, như 3 pháo đài ngăn cản mọi âm mưu đen tối của giặc.
Khi giao chiến thì Ngài đã “mưu kế tự kế” bổ sung thêm 2 vị trí phục kích khác tại cầu Gạo, núi Thất Diệu. Phá huỷ cầu phao, cắt đứt đường tháo chạy của quân giặc. Đập tan ý chí tấn công của địch.
+ Ly tán, ngăn không cho thuỷ binh và bộ binh của giặc gặp nhau.
+ Ngài kết hợp rất khéo léo thế mạnh của quân dân miền núi và sức mạnh toàn dân lấy tinh thần yêu nước làm gốc.
+ Với việc cho ba quân đọc to lời bài thơ Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt đã làm tăng sự hăng hái của quân ta, làm tan nhuệ khí của địch. Ấy chính là Đạo Binh Gia về “dĩ dật đãi lao”.
+ Phát huy lợi thế về địa thế sông núi hiểm trở để làm tiêu tan sinh lực địch. Đại quân của Lý Thường Kiệt hạ trại trên cao, bày trận sát bờ sông. Trên cạn thì Đắp đê làm tường thành, lấy tre làm áo giáp cho thành. Dưới nước thì cắm chông để chọc thủng tàu giặc. Phàm hạ trại nên ở nơi cao ráo tránh ẩm thấp, ở nơi sáng tránh chỗ tối tăm, ở nơi gần cỏ và nước có đường vận chuyển quân nhu tiện lợi, tướng sĩ không bị nhiễm bệnh, đó là đảm bảo cho chiến thắng.
Mượn thế núi hiểm trở để đưa quân giặc vào thế “Thiên tỉnh” là nơi vách cao vây bộc, “Thiên lao” là nơi 3 mặt bị vây vào dễ ra khó, “Thiên khích” là nơi hẻm núi khe hở để bố trí phục binh mai phục quân giặc. Đây chính là chiến thuật sử dụng địa hình đỉnh cao trong Binh Pháp Tôn Tử.
+ Khi thiết lập mũi tiến công, Ngài dùng chiến lược độc đáo “đặt mồi câu 1 nơi, nhưng móc câu lại ở nơi khác”, chính là dùng đại binh để phô thương thanh thế để lôi kéo toàn bộ quân chủ lực của địch dồn vào doanh trại Quách Quỳ rồi lên thuyền tiến công xa bờ, cùng lúc đó Ngài mang đội quân chủ lực tập kích doanh trại của phó tướng Triệu Tiết, bắt sống Triệu Tiết.
Chiến lược tấn công này của Lý Thường Kiệt có thể nói là làm cho quỷ khóc thần sầu vì đối phương khó có thể hiểu được dụng ý, như trong trận Mộc Môn, Kiếm Các, Gia Cát Lượng đã không ít lần làm cho bộ não chứa nhiều binh pháp như Tư Mã Ý phải chịu thua.
Nói về binh pháp của Lý Thường Kiệt dùng trong trận Như Nguyệt thật không biết bao nhiêu kể siết vậy.
6. Đánh dẹp Lý Giác, Chế Ma Na
Những năm cuối đời, Lý Thường Kiệt vẫn tận tâm phụng sự cho sự bình yên của nước nhà Đại Việt. Theo Đại Việt Sử ký Toàn Thư: “Mùa đông, tháng 10/1103, người châu Diễn là Lý Giác mưu làm phản. Trước đây Giác học được thuật là, có thể biến cỏ cây làm người, mới chiêu tập những kẻ vô lại chiếm cứ châu ấy, đắp thành làm loạn. Vua lệnh cho Lý Thường Kiệt đi đánh. Giác thua trốn sang Chiêm Thành. Dư đảng đều dẹp yên.”
]Tháng 4/1104, vua Chiêm Thành là Chế Ma Na đem quân sang cướp 3 châu. Đến đây, Lý Thường Kiệt lúc ấy đã khoảng 85 tuổi, một lần nữa Ông kéo quân đi đánh, phá tan quân Chiêm, Chế Ma Na nộp lại đất ấy cho Đại Việt. 1 năm sau, vào mùa hạ, tháng 6/1105 thì Thái Uý Lý Thường Kiệt qua đời.
Biên tập bởi Jessica Thảo Nguyễn
Tham khảo tư liệu từ: Việt Nam Sử Lược, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Việt Sử Tiêu Án, Binh Pháp Tôn Tử, Wikipedia và một số nguồn khác từ Internet.
Bạn có thể xem video “6 trận đánh đỉnh cao binh pháp của Lý Thường Kiệt” trên kênh Youtube Ý Nghĩa Sống tại đây:
Xem thêm:
14 danh nhân, anh hùng dân tộc Việt Nam
9 thuật sử dụng địa hình đỉnh cao trong Binh Pháp Tôn Tử
Tôn Vũ (cha đẻ của Binh Pháp Tôn Tử) và 5 trận chiến lưu danh thiên cổ
Binh Pháp Ngô Quyền – Đại thắng trên sông Bạch Đằng